Kinh tế - xã hội Núi Thành

Dân cư

Tính đến ngày 01 tháng 04 năm 2009, dân số của Núi Thành đạt 142.020 người, trong đó nam giới chiếm 48,6%, nữ giới chiếm 51,8%. Người Kinh chiếm đại bộ phận dân số (98%), phần còn lại là người Kor với dân số khoảng 1.085 người sống chủ yếu tại các thôn 4, 6 và 8 của xã Tam Trà. Tổng số hộ dân trong toàn huyện là 34.280 hộ, trung bình mỗi hộ có 4 người, một tỷ lệ thấp so với các địa phương trong cả nước. Đa phần dân cư sống tại các xã đồng bằng ven biển, các xã vùng núi có diện tích lớn nhưng dân cư thưa thớt.

Phần đông dân cư hoạt động trong khu vực nông - lâm - ngư nghiệp. Năm 2006, trong tổng số 68.896 người trong độ tuổi lao động, số lao động trong khu vực 1 đạt 50.478 người (chiếm 73,26%). Các ngành công nghiệp, xây dựng thu hút 7.351 lao động (chiếm 10,66%). Khu vực III dịch vụ thu dụng 7.479 người (chiếm 11,07%). Tuy nhiên quá trình dịch chuyển kinh tế kéo theo sự dịch chuyển lao động rất nhanh từ khu vực nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ.

Giáo dục

Toàn huyện có 3 trường THPT gồm THPT Núi Thành, THPT Nguyễn Huệ và THPT Cao Bá Quát, một Trung tâm Giáo dục Thường xuyên - Hướng nghiệp Dạy nghề. Cấp THCS có 15 trường phân bố rải đều trong các xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Cấp Tiểu học có 26. Ngoài ra huyện còn có 16 trường mẫu giáo, 1 lớp bán trú cho học sinh người dân tộc thiểu số, 14 Trung tâm Học tập Cộng đồng. Tổng số học sinh (năm học 2006 - 2007) là 31.822 học sinh.

Huyện đã được công nhận phổ cập tiểu học 12/2002; có 16/17 xã, thị trấn được công nhận phổ cập THCS. Huyện Núi Thành được tỉnh kiểm tra công nhận hoàn thành PCGD THCS tại thời điểm tháng 10 năm 2004, 10 trường học được công nhận đạt chuẩn quốc gia.

Y tế

Huyện có 1 bệnh viện với 80 giường bệnh, có 17 trạm y tế xã, thị trấn; tổng số y, bác sĩ: 100 người. Bệnh viện Đa Khoa Trung ương Quảng Nam với 500 giường bệnh được đưa vào sử dụng cuối năm 2012 góp phần nâng cao việc khám chữa bệnh cho nhân dân.

Tình hình phát triển kinh tế

Núi Thành là trung tâm phát triển công nghiệp nhanh và mạnh nhất của tỉnh Quảng Nam. Với Khu Kinh tế Mở Chu Lai được đánh giá là khu kinh tế thành công nhất Việt Nam, Núi Thành đóng góp hơn 60% tổng thu ngân sách Quảng Nam. Kinh tế chuyển dịch rõ rệt theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Các KCN Bắc Chu Lai, KCN Cảng và Dịch vụ Hậu cần Tam Hiệp, KCN Tam Anh, và Khu Phi thuế quan cảng Kỳ Hà là động lực phát triển của huyện trong những năm tới. Những dự án du lịch lớn tạo điều kiện thuận lợi để khai thác tốt hơn tiềm năng du lịch biển của địa phương. Khu Liên Hiệp Cơ khí Ô Tô Chu Lai - Trường Hải, nhà máy Kính nổi, nhà máy sản xuất xút là các cơ sở sản xuất công nghiệp trọng điểm của huyện (tính đến năm 2011).

Bên cạnh việc phát triển rất nhanh công nghiệp, ngành nông nghiệp với trọng tâm đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thủy hải sản cũng đem lại nguồn thu ổn định cho cư dân ven biển. Núi Thành là tỉnh có sản lượng đánh bắt thủy hải sản lớn nhất tỉnh Quảng Nam và là một trong những trung tâm ngư nghiệp mạnh của duyên Hải Miền Trung.

Vùng núi của huyện là địa bàn phát triển mạnh cây keo lá tràm (làm nguyên liệu giấy) và cây cao su được trồng trên diện rộng trong những năm gần đây.

Giao thông vận tải

Huyện Núi Thành có hệ thống giao thông vận tải phát triển mạnh. Sân bay Chu Lai có các chuyến bay đi và đến Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Cụm cảng Kỳ Hà có năng lực tiếp nhận các tàu có trọng tải đến 6.6000 tấn[3] và cảng Tam Hiệp lên tới 10.000 tấn.[4] Đường quốc lộ 1A đoạn chạy qua địa bàn huyện dài 31 km theo chiều Bắc-Nam, tỉnh lộ TL 617 nối các xã miền núi với đồng bằng. Ga Núi Thành là một điểm nhận trả hàng quan trọng của hệ thống đường sắt Thống Nhất. Hệ thống sông Trường Giang, Tam Kỳ tạo điều kiện thuận lợi cho giao thông thủy của huyện phát triển.